Âm lịch hiện nay được dựa trên cơ sở nào? Nó mang ý nghĩa gì đối với đời sống và văn hóa xã hội? Các chuyện động thiên văn có liên hệ ra sao với các qui ước của lịch? Xin giới thiệu tới độc giả bài phỏng vấn đầy đủ của phóng viên kênh truyền hình VTC14 với nhà nghiên cứu Đặng Vũ Tuấn Sơn - Chủ tịch VACA.
Hỏi: Thưa nhà nghiên cứu Đặng Vũ Tuấn Sơn, xin ông cho biết ý kiến của mình về ý nghĩa của âm lịch trong đời sống xã hội.
Trả lời: Âm lịch cũng như dương lịch và nhiều loại lịch khác trên thế giới đều được đặt ra với mục đích đầu tiên là để đếm thời gian. Ngoài ra, nó còn một ý nghĩa rất quan trọng là qua các mốc thời gian con người xác định được chu kỳ vận động của thời tiết. Riêng ở phương Đông, chẳng hạn như Việt Nam ta là một nước nông nghiệp gắn bó với trồng trọt và chăn nuôi. Đặc biệt trồng trọt liên quan rất mật thiết đến chu kỳ thời tiết. Biết qui luật vận động của thời tiết sẽ hỗ trợ rất nhiều cho hoạt động nông nghiệp.
Tất nhiên, về ý nghĩa nêu trên thì âm lịch và dương lịch đều có cùng mục đích đó. Ngày nay thực ra để tính chu kỳ thời tiết thì không cần tới âm lịch nữa vì dương lịch dự đoán có tính chính xác cao hơn bởi chu kỳ thời tiết phụ thuộc vào chu kỳ quỹ đạo của Trái Đất chứ không phải là của Mặt Trăng. Tuy nhiên, với người phương Đông thì âm lịch còn có một ý nghĩa văn hoá quan trọng, chẳng hạn như chúng ta có Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu, … đều là những dịp lễ cổ truyền không thể thiếu trong nếp sống thường ngày. Nhưng bên cạnh đó cũng nên lưu ý rằng âm lịch cũng chỉ là một cách qui ước cho phù hợp với nhu cầu đếm thời gian và dự báo thời tiết, mọi quan điểm cho rằng âm lịch mang yếu tố siêu nhiên đều không được khoa học thừa nhận.
Hỏi: Xin ông cho biết về cách tính ngày của người xưa và tương quan giữa ngày trong quan điểm dương lịch và âm lịch.
Trả lời: Về cơ bản nguyên tắc tính ngày của người phương Đông trước kia cũng giống như của người phương Tây. Ngày nay chúng ta biết rằng một ngày là khoảng thời gian để Trái Đất tự quay một vòng quanh trục của nó. Tuy nhiên người xưa chưa biết qui luật thiên văn này, mà tính ngày dựa trên vị trí của Mặt Trời trên bầu trời. Mốc được chọn là khi Mặt Trời lên cao nhất vào giữa trưa. Khoảng thời gian giữa hai lần giữa trưa liên tiếp được gọi là một ngày.
Ở phương Tây, người ta chia ngày thành 24 giờ, trong đó lúc 12 giờ là thời điểm giữa trưa. Đây cũng là giờ quốc tế dùng trong hành chính mà ngày nay chúng ta vẫn biết.
Còn ở phương Đông thì một ngày chia thày 12 canh, được gọi tên theo 12 chi là Tí, Sửu, ..., trong đó canh Tí kéo dài từ 11h đêm hôm trước đến 1h sáng hôm sau, do đó cũng có nhiều tài liệu cho rằng ngày trong âm lịch sớm hơn ngày trong dương lịch 1 giờ. Thời điểm giữa trưa của ngày âm lịch tương ứng với canh Ngọ, kéo dài từ 11h đến 13h. Thời điểm chính giữa canh tương ứng với 12h trưa trong dương lịch là khi Mặt Trời lên cao nhất, gọi là chính ngọ.
Hỏi: Xin ông cho biết về cách tính tháng của người xưa và cơ sở để tính tháng thiếu và tháng đủ trong âm lịch.
Trả lời: Tháng trong âm lịch của chúng ta dựa vào chu kỳ của Mặt Trăng trên bầu trời. Mặt Trăng là vệ tinh tự nhiên của Trái Đất, nó chuyển động trên quĩ đạo quanh Trái Đất theo chu kỳ 27,32 ngày. Tuy nhiên vì trên thực tế Trái Đất còn có chuyển động quanh Mặt Trời nên phải mất thêm một khoảng thời gian nữa để Mặt Trăng về vị trí cũ khi quan sát từ Trái Đất, khiến cho chu kỳ của Mặt Trăng được quan sát là 29,53 ngày. Chu kỳ này gọi là một tuần Trăng. Người phương Đông trước đây lấy một tuần Trăng này làm độ dài cho một tháng. Ngày mùng 1 mỗi tháng bắt đầu vào ngày có điểm không Trăng, âm lịch thường gọi là điểm sóc. Đây là điểm mà toàn bộ phần tối của Mặt Trăng quay về phía Trái Đất, hoàn toàn không thể nhìn thấy Mặt Trăng vào ban đêm.
Vì chu kỳ tuần Trăng là 29,53 ngày chứ không phải tròn 29 hay 30 nên điểm sóc không rơi vào một giờ cố định. Vì vậy tháng nào mà điểm sóc rơi vào cuối ngày của ngày mùng 1 âm lịch thì sau ngày 30 tháng đó mới có điểm sóc tiếp theo. Tháng như vậy có 30 ngày. Với những tháng điểm sóc rơi vào đầu ngày mùng 1 thì sau chu kỳ 29,53 ngày, điểm sóc tiếp theo xuất hiện sau ngày 29, tháng đó không có ngày 30, gọi là tháng thiếu.
Hỏi: Xin ông cho biết về cách tính năm của người xưa và mối liên hệ của cách tính này với các hiện tượng tự nhiên, như tiết trời, sự vận động của các hành tinh? Ngoài ra xin ông giải thích về tháng nhuận và năm nhuận ?
Trả lời: Ngày nay với kiến thức về thiên văn học đã có thì chúng ta biết rằng một năm là một chu kỳ chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời, chính là chu kỳ năm dương lịch. Một năm như vậy ứng với chu kỳ biến đổi thời tiết. Người phương Đông trước đây thì không dựa vào vị trí của Mặt Trời mà dựa vào vị trí của Mặt Trăng, nên khi ước đoán chu kỳ thời tiết thì họ thấy chu kỳ này tương đương với khoảng 12 tuần Trăng, do đó một năm được qui ước là độ dài của 12 tuần Trăng, hay 12 tháng.
Tuy nhiên sau đó người ta nhận ra là chu kỳ 12 tuần trăng này ngắn hơn chu kỳ thực của thời tiết khoảng 10 ngày, như vậy nếu cứ để nguyên 1 năm 12 tháng thì cứ ba năm lịch sẽ đi chậm so với chu kỳ thời tiết khoảng 1 tháng, càng nhiều năm độ lệch càng cao. Do vậy nên người phương Đông xưa đưa thêm vào tháng nhuận. Cứ khoảng ba năm thì lại có một tháng nhuận. Về qui tắc tính thì người ta lấy ngày đông chí - ngày có chứa trung khí tên là đông chí - hàng năm làm mốc. Năm nào mà giữa hai ngày đông chí có 13 điểm sóc thì năm đó có thêm tháng thứ 13. Năm có tháng nhuận này được gọi là năm nhuận âm lịch, tháng nhuận được chọn là tháng đầu tiên trong năm không chứa trung khí nào, và được lấy tên theo tháng ngay trước nó.
Hỏi:Ông có thể giải thích về tiết khí và trung khí cũng như cách tính tiết khí và trung khí?
Trả lời:Tiết khí và trung khí, ngày này thường được gọi cho ngắn gọn chung là tiết khí hay đơn giản là tiết, là các giai đoạn khác nhau trong năm, mỗi giai đoạn dài khoảng 15 đến 16 ngày, đặc trưng bởi những đặc điểm thời tiết khác nhau trong năm. Chúng được đúc rút ra từ quan sát thời tiết của người xưa qua rất nhiều năm và được đặt tên để đặc trưng cho thời tiết tương ứng. Chẳng hạn tiết đầu tiên trong năm là lập xuân, tức là bắt đầu mùa xuân, hay tiếp cuối năm tên là đại hàn, ám chỉ rằng giai đoạn này thường có rét đậm. Trên quan điểm thiên văn học thì các tiết này tương ứng với các vị trí khác nhau của Trái Đất trên quĩ đạo chuyển động của nó quanh Mặt Trời.
Có tất cả 24 giai đoạn xen kẽ tiết khí và trung khí hợp lại thành một năm, tương đương với một chu kỳ thời tiết.
Một điểm cần lưu ý là trên thực tế, các tiết này có ngày tháng không cố định theo âm lịch nhưng lại gần như cố định trong dương lịch là bởi dương lịch vốn được đặt theo chu kỳ của Trái Đất quanh Mặt Trời, không có tháng nhuận như âm lịch nên không có sự lệch về ngày tháng so với thời tiết. Chẳng hạn tiết lập xuân luôn rơi vào mùng 4 hoặc 5 tháng 2 dương lịch nhưng lại có thể là một ngày nào đó từ cuối tháng chạp cho đến giữa tháng giêng trong âm lịch theo tuỳ từng năm.
Hỏi: Xin ông cho biết đôi điều về chuyển động của các hành tinh trên bầu trời và mối liên hệ của chúng tới cách đặt lịch của người phương Đông xưa kia.
Trả lời: Trước đây việc các hành tinh chuyển động quanh Mặt Trời là điều chưa được biết tới. Người xưa chỉ nhận ra rằng trong các đốm sáng trên bầu trời hàng đêm thì có 5 đốm sáng có vị trí thay đổi so với nền trời sao qua mỗi đêm, với chu kỳ khác nhau. Chúng được người phương Đông gọi là hành tinh, tức là ngôi sao vận hành (còn các ngôi sao được gọi là hằng tinh, tức là sao cố định). Các hành tinh này được đặt tên theo năm yếu tố trong ngũ hành là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
Người ta thấy rằng cứ khoảng 0,25 năm thì Sao Thuỷ trở lại vị trí cũ trên bầu trời so với nền trời sao, Sao Kim thì mất 0,6 năm, Sao Hoả khoảng 2 năm, Sao Mộc khoảng 12 năm và Sao Thổ khoảng 30 năm.
Dựa vào chu kỳ 2 năm của Sao Hoả, người ta chia ra cứ hai năm liền nhau tương ứng với một hành trong ngũ hành, một năm mang tính âm và một năm mang tính dương theo quan niệm âm dương của phương Đông.
Sao Mộc cứ khoảng 12 năm về vị trí cũ, bằng với số tuần Trăng trung bình trong một năm, một chu kỳ như vậy được đặt tên năm lần lượt theo các chi từ Tí đến Hợi. Sao Thổ có chu kỳ dài nhất trong năm hành tinh này, khoảng 30 năm. Bội số chung nhỏ nhất của các chu kỳ này là 60 năm, có nghĩa là cứ 60 năm thì cả năm hành tinh lại cùng ở vị trí như cũ trên bầu trời (tất nhiên con số này không phải đúng tuyệt đối mà chỉ tương đối).
Hỏi:Ông có thể giải thích về cách tính thiên can, địa chi của người xưa, ứng với chu kỳ chuyển động của các hành tinh trên bầu trời?
Trả lời: Như tôi đã nói, Sao Hoả có chu kỳ khoảng 2 năm để trở lại vị trí cũ trên bầu trời, hai năm được gán một âm và một dương. Như vậy cứ năm chu kỳ của Sao Hoả là 10 năm, đủ hết một bộ âm-dương cho ngũ hành. 10 năm đó được đặt tên theo 10 yếu tố gọi là can, hay thiên can, mỗi can tương ứng với một yếu tố âm hoặc dương của một hành. 10 can gồm: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý trong đó Giáp, Ất tương ứng với Mộc; Bính, Đinh tương ứng với Hỏa; Mậu, Kỷ tương ứng với Thổ; Canh, Tân tương ứng với Kim; Nhâm, Quý tương ứng với Thủy.
Ngoài ra các năm còn được đặt tên theo chi, cứ hết chu kỳ 12 chi thì Sao Mộc lại trở về vị trí cũ. Như vậy, tên gọi của một năm đầy đủ gồm Can và Chi. Chẳng hạn năm nay là năm Bính Thân, sau Tết nguyên đán tới đây chúng ta sẽ sang năm Đinh Dậu, năm sau nữa là Mậu Tuất, ...
Đồng thời, chu kỳ 60 năm để cả năm hành tinh trở lại vị trí cũ trên bầu trời cũng là bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12. Do đó cứ 60 năm, một năm có tên cụ thể mới lặp lại, chẳng hạn năm nay là 2016 tương ứng với âm lịch là năm Bính Thân, thì tới năm 2076 mới lại có năm Bính Thân. Chu kỳ 60 năm này thường được gọi là Lục thập hoa giáp. Do đó 60 năm được coi là một chu kỳ vận động của thiên nhiên, cũng gần với mức tuổi thọ của người thời xưa.
-----------------
Trên đây là phần trả lời đầy đủ đã được ghi lại và có chỉnh sửa một vài câu cho hợp với văn phong báo chí mà vẫn bảo đảm đúng ý nghĩa và cách dùng thuật ngữ của mỗi câu. Phóng sự của VTC14 đã phát sóng lúc 21h40 ngày 05 tháng 10 năm 2016, với phần phỏng vấn đã được ban biên tập VTC lược bớt nhiều câu để phù hợp với thời lượng chương trình. Dưới đây độc giả có thể xem phần trả lời của người được hỏi trong phóng sự này. Phần lời dẫn của phóng viên có một vài điểm chưa chính xác, do đó chúng tôi đã xin phép lược bớt để bảo đảm tính chính xác của video.