Tác giả: Bùi Dương Hải
5. TAM
VIÊN
Ngoại trừ Thất Chính – Cửu Diệu và Tuệ tinh, các ngôi sao khác đều đứng yên tương đối trên bầu trời, và hằng đêm cả “tầng trời Liệt Túc” đó đều từ từ xoay quanh một điểm cố định, mỗi ngày lại dịch đi một chút, và sau một năm th́ quay trọn một ṿng. Điểm đó gọi là Thiên Cực, và v́ ở phía Bắc nên gọi là Bắc Thiên Cực. Thiên Cực, do đó được gọi là Trung Thiên – trung tâm của bầu trời.
Ngày nay, dưới
mặt đất cũng có thể h́nh dung tương tự
rằng nếu đi về hướng Bắc đến
tận Bắc Cực, th́ không c̣n các phương nữa, mọi
hướng đều là phương
Các vua Trung Hoa cho
ḿnh là ở giữa mặt Đất, nên tự nhận miền
đất ḿnh đang cai trị là Thiên hạ, Trung quốc,
Trung nguyên, c̣n ḿnh là Thiên tử. Khi đó Kinh đô là Trung tâm
mặt đất, ứng với Bắc Thiên Cực là
trung tâm bầu trời. Giữa hai điểm đó là Trục
trời đất. Tư tưởng coi ḿnh ở Trung tâm
trái đất không xa lạ ǵ với các nền Văn minh
khác. Trong suốt mười mấy thế kỷ, người
phương Tây vẫn cho rằng thành thánh Jerusalem là trung
tâm thế giới, 3 châu Âu, Á, Phi x̣e ra như 3 cái lá; người
Hồi giáo cũng coi Mecca là tâm thế giới. Trước
đó, người Hy Lạp cho núi Olymper là nơi Thiên
đ́nh ở, cũng như người Ấn Độ
cho núi Meru (Tu Di) huyền thoại là Trục Vũ trụ,
xuyên xuống bên ở bờ sông Hằng.
Trong khi người
Hy Lạp quan tâm đến các cḥm sao nằm trong Hoàng đới
th́ người Trung Hoa lại quan tâm nhiều hơn đến
Thiên Cực. Dưới mặt đất chia ra Cửu
châu(1) Ngũ phục, th́ trên trời cũng chia làm
Cửu trùng các khu vực tinh tú. Chỉ có điều Trời
th́ quay quanh Thiên Cực c̣n Đất th́ cố định.
Một điều lưu ư nữa là phương vị trên
trời ngược với dưới mặt đất,
tức phía Đông ở bên trái, Tây bên phải,
Ngũ phục là 5
vùng tính từ Trung tâm (kinh đô) ra với khoảng cách 500
dặm: Điện phục là ṿng trong cùng nơi vua ở,
Hầu phục là ṿng tiếp theo, cho các quan và chư hầu,
Tuy phục cho dân cư và quân sự, Yêu phục và Hoang phục
là các vùng ngoài. Tương tự, trên bầu trời cũng
được chia thành các khu vực. Ba khu vực ở giữa
là Tam Viên, gồm Tử Vi, Thái Vi, Thiên Thị,
tiếp đó là ṿng của Nhị thập bát Tú, các chỗ
trống c̣n lại là Thiên Cương Địa sát.
Viên nghĩa là bức
tường vây, Tử Vi, Thái Vi và Thiên Thị đều có
các cḥm sao vây lại. Tú là ṭa nhà lớn. Như vậy nói
đến Tú là chỉ nói đến 28 cḥm mà thôi.
Các cḥm sao trong tiếng
Hán gọi là Tiểu tinh quan hoặc Tinh tọa.
Nhưng có một số ngôi sao đứng riêng mà không
được xếp vào cḥm nào cả.
I. Tử Vi
Tử Vi là khu vực
trung ương có h́nh tṛn, vây quanh Thiên Cực, cách một
góc khoảng 40 độ, là tượng trưng cho Thiên
Cung. Tử là màu tía, màu của huyền bí, kỳ diệu,
Vi là cây hoa, Viên là khu tường vây. Đây là nơi ở của
Thiên Hoàng Thượng đế, hoặc Trung thiên Bắc
Cực Tử Vi đại đế (ông Bắc
đẩu), chuyên về Sinh mạng con người. Có lẽ
v́ thế mà cung cấm các vị Hoàng đế đều
gọi là Tử cấm thành, dù nó không có màu tím.
Trong Tử Vi viên có
trên 160 sao, chia thành gần 30 cḥm và một số sao độc
lập. H́nh ảnh của cả một Hoàng cung hiện
ra, với đủ các thành tố: Hoàng tộc (Đế,
Thái tử, Hậu cung), người hầu hạ (Ngự
nữ, Thượng tể), quan lại (Thượng
thư, Tam công, Tướng quốc(2)), lực
lượng bảo vệ (Thượng vệ, thiếu vệ),
các cơ quan phục vụ Triều đ́nh (Đại lư -
Ṭa án, Nội trù - bếp, Nhà lao, nhà Khách, giường…).
Dưới đây
là danh sách các cḥm sao và sao riêng trong ṿng Tử Vi, theo thư tịch
đời Thanh, 1744, con số trong ngoặc là số sao của
cḥm. Bốn cḥm quan trọng nhất th́ các ngôi sao đều
có tên riêng, các cḥm khác th́ sao chỉ đánh số thứ tự
(nhất, nhị, tam…) Một số ngôi tuy ở gần các
cḥm nhưng không thuộc về cḥm đó, được
đánh thứ tự riêng.
1. Bắc Cực (5 sao Thuộc cḥm Ursa Minor – Tiểu
Hùng)
i.
Thái tử sao g
ii.
Đế sao z
iii.
Thứ tử sao e
iv.
Hậu cung sao d - Yildun
v. Thiên cực sao a - Polaris
2. Tứ phụ (4 sao)
3. Câu Trần (6 sao)
a.
Thiên Hoàng Đại đế
4. Thiên Trụ (5 sao)
5. Ngự Nữ (4 sao)
b. Nữ
sử
c. Trụ
sử
6. Thượng Thư
(5 sao)
7. Thiên Sàng (6 sao)
8. Đại Lư (2 sao)
9. Âm Đức (2 sao)
10. Lục Giáp (6 sao)
11. Ngũ Đế Nội
Tọa (5 sao)
12. Hoa Cái (7 sao)
13. Cống (9 sao)
14. Tử Vi Tả viên (8 sao), gồm
i.
Tả Xu
ii.
Thượng tể
iii.
Thiếu tể
iv.
Thượng bật
v.
Thiếu bật
vi.
Thượng vệ
vii.
Thiếu vệ
viii.
Thiếu thừa
15. Tử Vi Hữu
viên (7 sao)
i.
Hữu xu
ii.
Thiếu úy
iii.
Thượng phụ
iv.
Thiếu phụ
v.
Thượng vệ
vi.
Thiếu vệ
vii.
Thượng thừa
d. Thiên
Ất
e. Thái
Ất
16. Nội Trù (2 sao)
17. Bắc Đẩu (7 sao - thuộc cḥm Ursa Major – Đại Hùng)
i. Thiên xu sao a - Dubh
ii. Thiên toàn sao b -Merak
iii.Thiên cơ sao g - Phecda
iv. Thiên quyền sao d - Megrez
v. Ngọc hoành sao e - Alioth
vi. Khai dương sao z - Mizar
vii. Dao quang sao h - Alkaid
f. Phụ tinh: cạnh Khai Dương - Alcor
18. Thiên Thương (3 sao)
h. Huyền
qua
19. Tam Công (3 sao)
k. Tướng
quốc
20. Thiên Lư (4 sao)
m. Thái
Dương thủ
n. Thái
tôn
21. Thiên Lao (6 sao)
22. Thế (4 sao)
23. Văn Xương (6 sao)
24. Nội Cấp (6 sao)
25. Tam Sư (3 sao)
26. Bát Cốc (8 sao)
27. Phó Xá (9 sao)
28. Thiên Trù (6 sao)
29. Thiên bồi (5 sao)
(Về vị trí
chính xác của các v́ sao trong ṿng Tử Vi, có thể xem phụ
lục)
Nh́n tổng thể
Cung Tử Vi, có thể thấy đó giống như một
khu vực Thiên cung của Thượng đế. Hai bên
trái phải là hai bức tường ṿng Tả hữu Tử
Vi viên, do các vị thiên quan tối cao như Tể, Phụ, những thiên thần Vệ, Thừa,
Úy. Cửa phía trước được bảo vệ bởi
Bắc Đẩu Thất tinh, phía sau là khu để báu vật.
Giữa Ṭa cung đó là Thiên Cực có 4 ngôi sao canh gác,
liền trước là ngôi bản mệnh Hoàng gia: Vua ở
giữa hai con là Thái tử và Thứ tử, tiếp đến
là Hậu cung. Thiên Hoàng Thượng đế ngự
ở giữa các lớp màn trướng, trước có Ngự
nữ, Nữ sử đứng hầu, phía sau là 6 vị
thần tướng bảo vệ, một bên là chỗ của
Ngũ Đế (3), bên kia là 5 vị Thượng
thư chầu. Trong cung đó có Âm đức, có Thiên lư
tượng trưng có Uy đức và Quy luật của trời.
Bên ngoài hai bức
tường là các khu hỗ trợ: nơi xử án (Thiên
lư), nơi học tập (Văn Xương), nhà bếp
(Thiên trù), kho lương thực (Bát cốc), nhà giam (Thiên
lao), nhà khách (Phó xá), phù trợ (Thiên bồi),…, sát ngoài ṿng
cung là nơi các Đại thần và Tướng quốc
chầu, bên kia là Thái thủ và Thái tôn canh giữ.
Cḥm Bắc Đẩu
Thất tinh (17) là nơi rất quan trọng với con
người, án ngữ đường vào Thiên Cung. Không nên
dùng chữ Đại Hùng tinh cho Bắc đẩu, bởi
cḥm Đại hùng (Great Bear - Ursa Major) không chỉ có 7 ngôi mà
c̣n nhiều ngôi nữa. Trong 7 ngôi của Bắc Đẩu,
th́ sao Thiên quyền ở chính giữa là đại diện
cho Bản mệnh con người. V́ thế khi cúng sao xin mệnh
th́ ngọn đèn ở vị trí sao Thiên quyền tượng
trưng cho mạng sống. Ngôi sao sát cạnh sao Khai
Dương không thuộc Bắc Đẩu, nên gọi là Phụ
tinh.
Trên thực tế,
ngay các nhà thiên văn cổ đại cũng không hoàn toàn
thống nhất với nhau về các cḥm sao. Bản đồ
Đôn Hoàng từ rất sớm nên có khác bản đồ
sau này; chẳng hạn cḥm Thiên Hoàng là 4 ngôi, trong khi bản
đồ sau Thiên Hoàng là 1 ngôi nằm giữa cḥm Câu Trần;
không có Ngự Nữ, hoặc Tả Đàn chỉ có 7 ngôi….
V́ Mặt trăng
chuyển động theo quỹ đạo tṛn (gọi là Bạch
đạo) nhưng không có tâm là Thiên Cực, nên khi xác định
28 Tinh tú nằm giữa Bạch đạo và Hoàng đạo
th́ tạo thành hai khoảng trống phía đông và phía nam của
ṿng Tử Vi. Khu phía đông tạo thành một ṿng là Thái Vi.
Nếu Tử Vi là Cung của Huyền ảo, linh thiêng, th́
Thái Vi viên với chữ Thái mang nghĩa Cao quư. Trong khu vực
này các sao ứng với các quan lại trong triều đ́nh,
là bộ máy hành chính của nhà nước phong kiến.
Thái Vi 75 sao, 16 cḥm
và một số sao độc lập, một vài sao nằm
về phía dưới của Hoàng đạo.
1. Ngũ
Đế Tọa (5
sao)
a. Thái Tử
b. Ṭng quan
c. Hạnh thần
2. Ngũ
Chư hầu (5 sao)
3. Cửu
Khanh (3 sao)
4. Tam
Công (3 sao)
5. Nội
B́nh (4 sao)
6. Thái
Vi Tả viên (5 sao)
i. Tả chấp pháp
ii. Đông thượng
tướng quốc
iii. Đông thứ tướng
quốc
iv. Đông thứ tướng
quân
v. Đông thượng
tướng quân
7. Thái
Vi Hữu Viên (5 sao)
i. Hữu chấp pháp
ii. Tây thượng tướng
quân
iii. Tây thứ tướng
quân
iv. Tây thứ tướng
quốc
v. Tây thượng tướng
quốc
d. Lang tướng
8. Lang
Vị (15 sao)
9. Thường
Trần (7 sao)
Tam
Đài: gồm
10. Hạ
Đài (2 sao)
11. Trung
Đài (2 sao)
12. Thượng
Đài (2 sao)
e. Hổ Bôn
13. Thiếu
Vi (4 sao)
14. Trường
Viên (4 sao)
15. Linh
Đài (3 sao)
16. Minh
Đường (3 sao)
f. Yết Giả.
Nh́n tổng thể, Thái Vi giống như nơi làm việc của Triều đ́nh. Khi Ngũ đế từ Nội tọa trong Tử Vi ra làm việc th́ ngồi ở giữa, bên cạnh là các vua chư hầu. Thái tử ở đằng sau, có Hạnh thần và Ṭng quan hầu hai bên. Tả Hữu Thái vi viên, bắt đầu từ Chấp pháp cho đến Tướng quốc, tướng quân, thượng thừa là ṿng ngăn cách trong và ngoài. Các quan Tam công, Cửu khanh ở vị trí phía trước, bên cạnh Nội b́nh. Đằng sau th́ một bên là Lang tướng và quân sĩ, một bên là Tam đài với quân Hổ bôn. Bên ngoài là các công tŕnh: Minh đường, Tường dài, gác cao, có Yết giả là quan coi việc thông báo, sứ giả.
III. Thiên Thị
Nếu Thái Vi nằm đông th́ Thiên thị khu vực phía
nam của Tử Vi, nơi chư hầu ở. V́ vậy ở
Thiên Thị có các v́ sao mang tên các nước thời Chiến
Quốc. Cung này có 83 sao, chia làm16 cḥm và 2 sao độc lập,
gồm:
a. Đế
Tọa
b. Hầu
1. Hoạn
Giả (4 sao)
2. Đẩu (5 sao)
3. Hộc (4 sao)
4. Liệt
Xứ (2 sao)
5. Xa
Tứ (6 sao)
6. Tông
Chính (2 sao)
7. Tông
Nhân (4 sao)
8. Tông (2 sao)
9. Bạch
Độ (2 sao)
10. Đồ
Tứ (2 sao)
11. Tả
Viên (11 sao)
i. Vệ
ii. Triệu
iii. Cửu Hà
iv. Trung sơn
v. Tề
vi. Ngô việt
vii. Từ
viii. Đông hải
ix. Yên
x.
xi. Tống
12. Hữu
Viên (11 sao)
i. Hà trung
ii. Hà gian
iii. Tấn
iv. Trịnh
v.
vi. Tần
vii. Thục
viii. Ba
ix. Lương
x. Sở
xi. Hàn
13. Thiên
Kỷ (9 sao)
14. Nữ
Sàng (3 sao)
15. Quan
Tác (9 sao)
16. Thất
Công (7 sao)
Đây là khu vực
xa hơn Triều đ́nh, gồm chợ và các nước
chư hầu. Chính giữa vẫn là khu vực cho Vua (khi xuống
thăm dân), bên cạnh là chỗ cho chư hầu, phía
trước có các cơ quan như Tông, Tông Chính, Tông nhân, là
nơi kiểm soát các hoạt động về hành chính,
con người, đề ra các quy tắc. Trong Thiên thị
có chợ bán kim hoàn, bán bánh, vải lụa, có đấu có
hộc để đong đếm, rồi ra đến bến
sông, đến núi. Các nước chính của thời Xuân
Thu Chiến quốc đều có tên trong vùng này, xa nhất
là đến biển Đông hải,
Chính việc “quy hoạch”
bầu trời theo các chức danh quan lại, cũng
như các vùng đất, đă nảy sinh truyền thống
xem tượng trời để đoán vận mệnh quốc
gia, địa phương, đoán “Thánh nhân ra đời”
“ứng vào địa phận…” như trong truyền thuyết
dă sử, thậm chí chính sử.
Trên bản đồ
tổng quát, Tam Viên là ba khu vực trên bầu trời phía gần
Bắc Cực, nằm giữa Nhị thập bát tú, lệch
về hướng Nam và Đông. Trục trái đất lệch
với mặt phẳng Thiên xích đạo một góc 23,5
độ, cũng như mặt phẳng Thiên xích đạo
lại lệch so với mặt phẳng quỹ đạo
mặt trăng, gây nên việc quan sát phải có những
điều chỉnh theo, và tượng trời cũng
không có tính đối xứng hoàn toàn.
Đặc biệt
là việc chia hướng trên bầu trời, khái niệm
về Đông Tây Nam Bắc nếu như lấy Thiên Cực
Bắc làm gốc tọa độ, tương ứng với
bốn mùa, là cơ sở cho Thiên văn và Vũ trụ quan
của người Trung Hoa.
(1) 9 Châu cổ đại
là Kư, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự,
Lương, Ung
(2) Trong tiếng Hán, có 2
chứ cùng đọc là Tướng, viết khác nhau, với
2 nghĩa tướng quốc (chính trị - hành chính, có
người đọc là Tương) và tướng quân
(quân sự). Ở đây để không nhầm lẫn, dù
tên sao chỉ có 1 chữ, nhưng tôi phải chuyển sang
là Tướng quốc hoặc Tướng quân để
phân biệt.
(3) Ngũ Đế, cũng
có nhiều thuyết về Ngũ đế: [1]. Phục
Hi, Thần Nông, Hoàng đế, Nghiêu, Thuấn – lúc này Ngũ
đế có Tam hoàng, ngôi vị không thua kém Thiên Hoàng Thượng
đế. [2] Thái Hiệu, Hoàng đế, Thần Nông, Thiếu
Hiệu, Chuyên Húc [3] Phục Hi, Thần Nông, Hoàng Đế,
Thiếu Hiệu, Chuyên Húc,… Ở đây có thể coi Ngũ
đế là tượng trưng cho Vua nói chung.
(…) Thượng thư
là đứng đầu các bộ. Triều đ́nh dưới
đất có 6 bộ là Lễ, Binh, H́nh, Lại, Công, Hộ,
th́ trên Thiên đ́nh có bộ Ôn, Đẩu, Hỏa, Vũ,
Lôi …
(…) Tam Công: Thái sư, Thái
phó, Thái bảo, có vai tṛ cố vấn cho vua. Cửu khanh: 9
chức quan từ thời
Thiên Cực Polaris
Bắc Cực North Polaris
Tam Viên: Three Enclosures
Tử Vi: Purple Forbidden Enclosure
Thái Vi:
Thiên Thị: Heavenly Market Enclosure.