Tác giả: Bùi Dương Hải
9. HỌC
THUYẾT ÂM DƯƠNG
Sự vận động
của tự nhiên tuân theo quy luật nào, vận động
như thế nào, đó là điều người Trung Hoa
t́m hiểu hàng ngàn năm và đúc kết thành một học
thuyết độc đáo: Thuyết Âm Dương. Có thể
nói đây là lư thuyết chủ đạo, nền tảng,
lâu đời nhất, huyền bí nhất và cũng
được ứng dụng nhiều nhất trong thế
giới quan phương Đông.
Trong phần
này tôi không hề có tham vọng tŕnh bày sâu về học thuyết
này, mà chỉ đề cập những cách tiếp cận
sơ đẳng, trực diện nhất ứng dụng
vào thế giới quan, loại bỏ bớt yếu tố
triết lư và nhân sinh quan. Hiện
nay ngoài thị trường sách có hàng chục quyển phân
tích sâu về nó, mỗi quyển đều vài ba trăm cho
đến gần ngh́n trang, tha hồ cho những ai quan tâm
có thể t́m hiểu.
Nhiều người
đă từng đọc qua triết học phương
Đông ngạc nhiên v́ tŕnh độ khái quát hóa cao của
nó, và đặt ra câu hỏi là do ai nghĩ ra. Tác giả không phải chỉ là một người,
mà rất nhiều bộ óc, không phải một thời
điểm, mà cả một giai đoạn dài, thậm chí
hàng ngh́n năm. Qua một quăng thời
gian dài tổng hợp, phân tích, những tư tưởng
phù hợp đă để lại cho chúng ta ngày nay một
tư tưởng xuất sắc.
Người
Trung Hoa gán nguồn gốc của thuyết Âm Dương
Bát quái cho Phục Hi, vị vua Thái cổ huyền thoại. Kinh Dịch
chép rằng Phục Hi thấy Long mă hiện lên ở sông
Hoàng Hà, trên lưng có bức đồ h́nh, rồi thấy
rùa thần hiện ở sông Lạc, trên lưng cũng có
trang chữ. Phục Hi dựa vào đó vẽ lại thành
Hà đồ Lạc thư, rồi ngửa
đầu xem tượng trời, cúi xuống xem thế
đất, mà vẽ nên Bát quái.
Hà đồ Lạc
thư thực sự thế nào không ai biết,
các thuyết cũng khác nhau, chẳng hạn cho Lạc
thư là do vua Vũ trị thủy mới thấy. H́nh vẽ
các chấm đen trắng như ngày nay vẫn thường
thấy là do Khổng An Quốc (cháu 12
đời của Khổng Tử) đưa ra vào khoảng
năm 140-186. Thực ra đây là một ma
phương Toán học, liên quan đến khoa Lư số.
Nh́n vào đó mà nói để h́nh thành lên thuyết
Âm Dương bát quái là điều không hợp lư. Có
chăng là sự ngược lại: từ thuyết Âm
Dương, kết hợp với tư duy số học
để vẽ nên hai bức của Khổng An Quốc?
Tuy vậy, thuyết
trên cũng làm nổi lên tư tưởng: Phục Hi phản
ánh tự nhiên thông qua việc quan sát một cách cẩn trọng,
khoa học, để từ đó rút ra những nhận
xét và khái quát hóa thành quy luật. Riêng thời
đại Phục Hi đă là một giai đoạn dài
trong lịch sử.
Theo các quan sát có thể
nhận thấy:
Theo thời gian
trong ngày: sáng tối đổi nhau, nóng lạnh luân phiên
Theo thời gian
trong năm: nhiệt hàn thay đổi, xuân hạ thu đông nối tiếp không dừng
Xét trong muôn loài: có
đực có cái, có nam có nữ
Vạn vật:
tăng trưởng suy thoái, lớn lên nhỏ đi, trẻ
khỏe già yếu
Trải hàng trăm
hàng ngàn năm, tư tưởng về hai mặt đối
lập, tương hỗ, mâu thuẫn nhưng thống nhất,
triệt tiêu mà thúc đẩy nhau, đă giúp người
Trung hoa sáng tạo ra khái niệm Âm – Dương.
Dương và Âm là hai
mặt của một tổng thể, đối lập
nhưng không thể tách rời
Tượng
trưng cho Dương là một vạch liền
Tượng
trưng cho âm là một vạch đứt
Vạch Âm hay
Dương gọi là một hào. (Khi tách biệt th́ hay nói
Dương trước Âm sau, nhưng khi gọi chung về Thuyết th́ lại là Âm
Dương, cũng chỉ là một thói quen).
Dương mang tính
sáng, nóng, động, tích cực, giống đực, phát
triển, mở rộng, sự sống, thực,…
Âm mang tính tối, lạnh,
tĩnh, tiêu cực, giống cái, suy thoái, thu
hẹp, cái chết, hư…
Khi yếu tố này thịnh th́ yếu tố kia suy và ngược lại. Điều đặc biệt là trong Dương có Âm và trong Âm có Dương. Không tồn tại yếu tố hoàn toàn Dương hoặc hoàn toàn Âm, v́ sẽ không thành một tổng thể hoàn chỉnh.
Nếu
trong một tổng thể lớn, phần mang thuộc
tính Dương khác với phần mang thuộc tính Âm. Nhưng khi tách thành từng bộ phận th́ mỗi
phần lại là một tổng ḥa Âm Dương mới.
Giống như cục
nam châm có 1 đầu Nam, 1 đầu Bắc. Nhưng khi chặt
đôi th́ mỗi phần lại có cực Nam cực Bắc
riêng, chứ không có phần toàn cực Nam và phần toàn cực
Bắc.
Chẳng
hạn nếu xét loài người là một tổng thể,
th́ phần Dương là
Cứ như vậy,
Âm Dương là giao ḥa tương tác, không bao giờ không tồn
tại, tuy đối lập nhưng không triệt tiêu nhau,
khi yếu tố này mạnh th́ yếu tố kia yếu,
nhưng không bao giờ suy đến cạn kiệt hoàn
toàn cả.
Xét về Vật
lư, đơn giản có thể h́nh dung Dương Âm như
là điện tích dương (proton), điện tích âm
(electron), dương và âm là hạt và phản hạt, sóng và
phản sóng, vật chất và phản vật chất.
Dương và âm như là lực đẩy và lực hút,
bùng nổ và đổ sụp, phát nóng sáng và nguội lạnh.
Vật chất sẽ luôn có hai mặt đó tồn
tại song hành, có lực đẩy sẽ có lực hút,
trong đẩy có hút, có phát nóng th́ cũng có nguội đi.
Trong quan niệm
Trung Hoa, Âm Dương là hai Khí của Vũ trụ, là hai thực
thể mà cũng là động lực của tự nhiên,
là hai nguyên lư tạo ra vạn vật.
Âm
Dương gọi là Lưỡng Nghi, là 2 nguyên lư. Từ
Lưỡng nghi sẽ sinh ra Tứ tượng là 4 thể
trạng, theo nguyên tắc chồng hai vạch
lên nhau. Xét vạch từ dưới lên, sẽ có tứ
tượng lần lượt là
Hai vạch
Dương, gọi là Thái Dương |
|
Dương – Âm, gọi
là Thiếu Dương |
|
Âm – Dương, gọi
là Thiếu Âm |
|
Hai vạch Âm, gọi
là Thái Âm |
|
Trong thiên văn tương ứng:
Thái Dương
: Mặt trời (Nhật): rất nóng, bầu trời
sáng
Thái Âm
: Mặt trăng (Nguyệt): lạnh, bầu trời
tối đen
Thiếu Âm : Định tinh (Tinh): không chuyển động,
lạnh
Thiếu
Dương – Hành tinh (Thần): chuyển động trên bầu
trời
V́ vậy
c̣n gọi Nhật nguyệt tinh thần là Tứ tượng,
và vị trí của chúng cũng gọi là Tượng trời.
Thái
Dương là Dương cực thịnh, Thiếu
Dương là Dương đă suy bớt, nhưng vẫn
mạnh hơn Âm. Thiếu Âm là Âm
đă mạnh hơn Dương, Thái Âm là Âm cực thịnh.
Bốn Tượng
này cũng là bốn giai đoạn của một chu tŕnh khép kín. Trong năm, mùa xuân là Thiếu
dương, khí ấm áp tăng dần; Mùa hạ là Thái
dương, nóng đến cực đại; Mùa thu là Thiếu
âm, khí lạnh đang về, Mùa đông là Thái âm, lạnh cực
đại.
Trong chu kỳ của
một con người hay sinh vật: giai đoạn đầu
tăng trưởng từ từ, là Thiếu dương,
đến thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ
(dậy th́ ở con người) là Thái dương, đến
cực đại khi trưởng thành toàn vẹn, rồi
suy dần dần là Thiếu âm, cuối cùng là suy sụp
nhanh chóng, là Thái âm.
Nhưng
trong Âm có dương và ngược lại. Trong mùa hè, khi nóng nực nhất vẫn có khí lạnh,
trong mùa đông, khi lạnh nhất vẫn có hơi ấm.
Khi con người phát triển mạnh mẽ nhất, th́
hàng ngày vẫn có hàng triệu tế bào bị suy thoái và chết
đi, có điều sự tăng trưởng mạnh
hơn rất nhiều sự suy thoái; tương tự,
trong thời kỳ già ốm, vẫn có những tế bào
được sinh ra, nhưng không thắng được
sự triệt tiêu. Có chăng chỉ là làm giảm
quá tŕnh suy sụp.
Trong một con
người, có đặc tính Dương và đặc tính
âm. Nếu xét theo quan niệm hiện đại, th́ mỗi
con người đều được kết hợp từ
nhiễm sắc thể của mẹ và của cha, đó là
cái khởi nguồn Âm Dương, nhưng với sự nổi
trội hơn của nhiễm sắc thể X hay Y, mà
đứa trẻ sinh ra là trai hay gái. Tuy vậy
trong cơ thể sẽ không bao giờ thiếu yếu tố
của cả nam và nữ (hoocmon nam và nữ chẳng hạn).
Khi tiếp
nhận Phật giáo, bốn giai đoạn này với con
người có thể được hiểu là Sinh Lăo Bệnh
Tử, với sự vật là Sinh Trụ Dị Diệt, với
Vũ trụ là Thành Trụ Hoại Không. Tuy vậy cũng không hoàn toàn đồng nhất,
v́ đây là hai tư tưởng triết học của hai
nền văn minh khác nhau.
Như
vậy Vận động là có tính khép kín, ṿng tṛn. V́ thế người phương Tây cho rằng
triết học phương Đông có dạng ṿng tṛn.
Từ
Âm Dương là 2 sinh ra Tứ tượng là 4, sẽ tiếp
tục nhân đôi thành 8, gọi là Bát quái.
Cách biến
đối chính là chồng thêm 1 quẻ nữa lên thành 3 quẻ,
mỗi quẻ có thể là Âm hoặc Dương.
Bát quái, tính theo vạch từ dưới lên, gồm
3 Dương, 3 vạch
liền: Càn, nghĩa là
Trời (Thiên): mạnh, cứng, nam
2 Dương + 1 Âm Đoài, nghĩa là
Đầm (Trạch): vui vẻ
Dương + Âm +
Dương Ly, nghĩa
là Lửa (Hỏa): sáng, sáng tạo
Dương + 2 Âm Chấn, nghĩa
là Sấm (Lôi): động
Âm + 2 Dương Tốn, nghĩa là
Gió (Phong): thuận lợi
Âm + Dương + Âm Khảm, nghĩa là
Nước (Thủy): sâu, hiểm
2 Âm + 1 Dương Cấn, nghĩa là
Núi (Sơn): an tĩnh
3 Âm, 3 vạch đứt Khôn, nghĩa là Đất
(Địa), nhu thuận, nữ
Mỗi
bộ ba vạch gọi là một Quẻ (Quái). Tên các
quẻ có thể do Văn vương đời
Theo truyền thuyết,
khi mới đặt thành Bát quái, Phục Hi vẽ các quẻ
theo một ṿng tṛn khép kín, tính các vạch
từ trong ra. Bốn hướng Đông Tây Nam Bắc ứng
với bốn mùa (các hướng nh́n lên trời nên ngược
với trên mặt đất, ṿng quay của các mùa nguợc
với chiều kim đồng hồ, là
hướng quay của Vũ trụ). Các quẻ đối
xứng về mặt h́nh học và ư nghĩa qua tâm ṿng, nếu
quẻ bên này vị trí này là dương th́ bên kia phải là âm. Ba vạch liền đối
với 3 vạch đứt, 2 đứt 1 liền đối
với 2 liền 1 đứt. Như vậy các cặp
đối nhau là:
Càn – Khôn (Trời –
Đất), Tốn – Chấn (Gió – Sấm), Khảm – Ly
(Nước – Lửa), Cấn – Đoài (Núi – Đầm).
Đến đời Chu (TK 12 TCN) th́ Chu Văn vương vẽ theo một trật tự khác, trong đó quẻ Càn bắt đầu từ hướng Tây Bắc, và theo ṿng ngược chiều kim đồng hồ lần lượt là Càn – Khảm – Cấn – Chấn – Tốn – Ly – Khôn – Đoài. Lư do tại sao đặt như vậy th́ không ai biết.
Bát quái của Phục Hi được gọi là Tiên thiên Bát quái, Bát quái của Văn vương được gọi là Hậu thiên Bát quái, tên này thời Hán đặt ra.
Trên thực tế,
cho đến trước đời Ân (cuối
Thương đầu Chu), trên các di chỉ đều
không thấy có h́nh Bát quái, nên có thể nó là sản phẩm
của trí tuệ đời Chu, nhưng được gán
cho Phục Hi là nhân vật thần thoại.
Đồ
h́nh Bát quái cũng là công cụ để phân định
phương vị. Trong các ứng dụng,
người ta thường dùng đồ h́nh Hậu thiên,
v́ vậy nói phương Chấn là nói phương Đông,
và mới có thuyết Trời mở ở tây bắc, Đất
mở ở đông nam. Hoặc như phương
Có những tác giả
cố dùng Tiên thiên và Hậu thiên bát quái để giảng
giải về thiên văn, bàn luận cho phù hợp với
thiên văn phương Tây, nhưng không thực sự khoa
học, nên không đưa ở đây.
Lúc
đầu Bát quái chỉ dùng để bói toán, sau phát triển
thành hệ thống Dịch, thành một nền triết học
thâm thúy khó hiểu. Với 8 quẻ th́
chưa diễn giải được, nên Văn
Vương nhà Chu (hoặc chính Phục Hi – tùy thuyết) chồng
các quẻ lên một lần nữa, 8 nhân 8 thành 64 quẻ chồng
(trùng quái), mỗi quẻ 6 vạch, tổng cộng 384 hào. Đó là cơ sở cho Dịch học.
Chẳng hạn: chồng
quẻ Càn lên Càn sẽ là Thuần Càn.
Chồng Cấn lên
Càn được quẻ Đại Súc
Chồng Khôn lên Càn
được quẻ Thái
Đi sâu vào nội
dung từng quẻ có cả một bộ Kinh Dịch đồ
sộ. Xin chỉ viết một số vấn
đề liên quan đến thế giới quan qua những
tư tưởng này.
Theo Kinh Dịch, Phục
Hi làm ra Bát quái, hơn 1 ngh́n năm sau, Văn vương nhà
Chu chồng quẻ và viết lời giải thích cho từng
quẻ, tổng cộng 64 câu, gọi là Thoán Từ,
nhưng ư nghĩa quá thâm sâu. Con của Văn vương là
Chu Công giải thích 384 hào, gọi là Hào từ. Thoán từ và Hào từ là kinh điển, về
sau c̣n có Thập dực và Thoán truyện nói rơ hơn nữa
ư nghĩa. Thập dực có thuyết nói là của Khổng
tử, v́ vậy khi bói Kinh Dịch th́ cúng 4 vị: Phục
Hi, Văn vương, Chu Công, Khổng tử. Nhưng có lẽ
Khổng tử chỉ nghiên cứu chứ không viết ǵ
vào Kinh dịch, Thập dực do đời sau viết ra.
Thế
giới quan trong Kinh dịch là nhị phân. Từ Âm Dương (2) chồng thành Tứ tượng
(4) chồng tiếp thành Bát quái (8), chồng nữa thành Lục
thập tứ quái (64). Thậm chí có
người như Tiêu Diên Thọ chồng tiếp thành 4096
quẻ.
Việc
dùng các vạch liền và đứt rất tương
đồng với hệ nhị phân 0 – 1 ngày nay, đặc
biệt hệ nhị phân trong tin học. Trong
tin học, 0 là mạch đứt, 1 là mạch liền, giống Âm và dương. Do đó có thể
thấy các quẻ đơn cũng là các số đếm,
bắt đầu từ 0 cho đến 7, tương tự,
64 quẻ chồng là từ 0 đến 63.
Với hệ đếm
nhị phân, ngày nay ta có thể mô tả được thông
tin về mọi sự vật hiện tượng. Một bức tranh số hóa cũng là chuỗi 0 –
1, một thiên thể bất kỳ cũng h́nh thành từ
các yếu tố Có và Không các tính chất. Do đó có thể
nói có thể dùng vạch Âm Dương phản ánh được
mọi sự vật.
Người
Trung Hoa cũng dùng các trùng quái để mô tả về các
tháng, hay là vị trí của trái đất trên quỹ đạo. Tháng
giêng là khi Âm dương cân bằng, sang tháng hai Dương
thêm 1 vạch, khí ấm tăng thêm một mức, sang tháng
ba Dương thêm 1 vạch, cứ như vậy, khí
Dương đầy nhất vào tháng tư, rồi khí Âm
xuất hiện vào tháng năm, tăng dần cho đến
tháng mười là cực đại, rồi khí
Dương lại tràn lên. Đối chiếu Âm
dương lịch, th́ Tháng 4 âm lịch ứng với tiết
Lập hạ, và tháng mười ứng với Lập
đông.
Âm
Dương Bát quái 64 quẻ là tác phẩm từ thượng
cổ đến thời
Theo Chu
Dịch này, nguồn gốc vạn vật, Vũ trụ là
Dương Âm, Càn Khôn. Càn vận động,
Khôn chứa đựng, như Cha và Mẹ, từ đó mới
có mọi thứ.
Âm
Dương là nguồn gốc vạn vật, nên có thể
nói rằng nguồn gốc của Vũ trụ là Nhị
nguyên. Bản thân hai yếu tố
nguyên lư đó đă là khởi thủy của mọi vật
chất và biến chuyển. Nhưng đến thời
Chiến Quốc hoặc Hán, quan điểm nhị nguyên
đă chuyển thành Nhất nguyên khi có khái niệm Thái Cực.
Trong Hệ từ thượng truyện viết “Thái Cực
sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng,
Tứ tượng sinh Bát quái”.
Thái Cực nghĩa
là hơn hết tất thảy, trước hết tất
thảy, trong ḷng nó chứa đựng tất cả những
nguồn gốc cho sự vận động, trong nó có cả
Âm lẫn Dương, nhưng là Âm Dương chưa tách
biệt, mà vẫn c̣n nhất thể. Thái Cực
là cái nguồn vô tận khởi thủy, là khí tiên thiên, linh
căn bất sinh bất diệt chứa đựng Âm
Dương.
H́nh vẽ mô tả Thái Cực
là một ṿng tṛn gồm hai nửa, đen là Âm, trắng là
Dương kết hợp chặt chẽ với nhau để
h́nh thành nên một tổng thể. Trong Âm có
Dương và trong Dương có Âm, Dương thịnh th́
Âm suy, Âm thịnh Dương suy. Nhưng
trong khi thịnh nhất của Dương th́ Âm đă xuất
hiện, và ngược lại. Âm
thăng c̣n Dương giáng.
Có thể nói đây là h́nh ảnh súc tích nhất của
Văn hóa phương Đông.
Kết
hợp với Bát quái, có Thái Cực đồ.
Ở
đây là Thái cực đồ Tiên thiên, v́ sử dụng
Tiên thiên bát quái.
Tư
tưởng về Vũ trụ đă hoàn chỉnh. Vũ trụ bắt nguồn từ Thái Cực.
Vũ trụ vận
hành theo cơ số 2.
Thái Cực – Lưỡng
Nghi – Tứ Tượng – Bát Quái
- Các quẻ - Biến hóa vô cùng.
1 (= 20) ® 2 (= 21)
® 4 ( = 22) ® 8 (= 23)
® 64 (= 26)
® …
Việc
cố gán các tư tưởng Đông Tây với nhau là
điều không hợp lư. Tuy nhiên khi
so sánh đối chiếu thuyết này với Vật lư học
hiện đại ngày nay th́ có những tương đồng
nhất định.
Theo thuyết của
Vật lư hiện đại, Vũ trụ bắt nguồn
từ Big Bang, Vụ nổ Lớn. Tại thời điểm
Big Bang, chỉ trong một chất điểm kích thước
vô cùng nhỏ, trong một khoảng thời gian vô cùng ngắn,
với không gian bị uốn cong đến vô cùng, đă chứa
đựng vật chất cho tất cả Vũ trụ
này. Trong đó có các hạt, phản hạt, sóng, lực hút
đẩy,…
Đó
là Thái Cực.
Khi Thái Cực phát
sinh, những yếu tố mang tính đối lập,
điện tích âm và dương, hạt và phản hạt,
sóng và phản sóng, vật chất và phản vật chất,
lực hút, lực đẩy,… được giải
phóng, tương ứng với Lưỡng Nghi.
Vũ
trụ giăn nở với một tốc độ nhanh, giai
đoạn Thái dương bùng nổ, tạo ra các thiên thể.
Sự giăn nở chậm
dần, là giai đoạn Thiếu dương, đến
một cực đại
Rồi
sẽ dần co lại, là Thiếu âm, cho đến thời
điểm co lại cực đại, là Thái Âm.
Hoặc như xét
chu kỳ sống của một ngôi sao: Lúc đầu ngôi
sao h́nh thành từ đám bụi khí co lại, tức là Thái Cực,
và rồi bùng nổ, phát xạ dữ dội, bắt đầu
giai đoạn Thái dương, để rồi nguội
dần, qua các giai đoạn thiếu dương, thiếu
âm, cuối cùng sụp đổ. Và theo
thuyết của Einstein và Hawking th́ nó sẽ thành một Lỗ
đen, là giai đoạn Thái Âm, để rồi ta không c̣n
nhận thức về nó được nữa v́ không c̣n
thông tin nào từ đó thoát ra.
Một con người
cũng như vậy. Thời điểm khi thụ thai,
con người chỉ là 1 tế bào duy nhất, trong đó
có yếu tố Dương của cha và Âm của mẹ,
đó là Thái cực. Chỉ khi có được
cả Lưỡng nghi đó, tế bào mới là một
cơ thể sống hoàn chỉnh. Tế bào tăng theo nguyên tắc nhân đôi, nguyên tắc của
Dịch. Trong mỗi cấu tạo nhỏ nhất của
cơ thể, đều gồm yếu tố Âm
dương. Trong tổng thể th́ cá thể
đó phải mang thuộc tính Dương hoặc Âm, nam hoặc
nữ cụ thể, nhưng bản chất đều có
cả hai. Yếu tố nào nổi trội
hơn sẽ cho tổng thể thuộc tính nổi trội
đó. Khi thay đổi giới tính, là sự thay
đổi trạng thái đang có sang trạng thái đối
lập.
H́nh ảnh của Thái Cực đồ rất giống với cách để đo các Tiết khí bằng phương pháp đo bóng mặt trời.
Khi quan sát bóng mặt trời tạo bởi một chiếc cột thẳng đứng tạo ra trên mặt đất, cùng với quan sát đuôi sao Bắc Đẩu, họ phân chia ṿng năm thành 24 cung ứng với 24 tiết trong năm, với 4 vị trí quan trọng là Xuân phân, Thu phân, Hạ chí, Đông chí. Với 6 ṿng tṛn đồng tâm tại chân cột, và đo bóng hàng ngày, bóng ngắn nhất vào Hạ Chí, dài nhất vào Đông Chí, nối các điểm lại, sẽ có được đồ h́nh bóng mặt trời, có thể đây là nguồn gốc cho Thái Cực đồ, với Âm là phần từ Hạ chí đến Đông chí.
Thái Cực
dường như là cội nguồn đầy đủ
cho Vũ trụ quan. Nhưng
các nhà Dịch học không dừng lại ở đó.
Khi đối chiếu với Vũ trụ
quan Đạo giáo, với câu “Đạo sinh Một, Một
sinh Hai, Hai sinh Ba, Ba sinh vạn vật” của Lăo tử,
họ cảm thấy thiếu một cái ǵ đó.
Nếu
Hai là Lưỡng nghi, Một là Thái Cực, th́ Đạo
phải là cái có trước cả Thái Cực.
Suy nghĩ về
cái có trước khi có Thái Cực, trước khi có Vật
chất đă khiến
Vô Cực
đồ mô tả quá tŕnh chuyển dịch của Vũ
trụ. Từ Hư Vô – Vô Cực,
không có ǵ, đă có tượng h́nh của Thái Cực – h́nh
tṛn. Thái Cực đă có trong ḷng nó Lưỡng
Nghi. Lưỡng nghi phân chia, chồng lên
nhau để thành Tứ tượng. Trong đồ
h́nh Tứ tượng th́ có đủ cả: Lưỡng
nghi ở tầng dưới, Tứ tượng tầng
thứ 2, và thêm tầng 3 th́ đủ Bát quái.
Chẳng hạn 3 bậc đen cả
là Càn; 2 bậc đầu đen, bậc 3 trắng là
Đoài; bậc đầu đen, bậc hai trắng, bậc
3 đen là Ly,…, và cuối cùng Bát quái tách biệt trong đồ
h́nh cuối.
Thảo luận về Vô Cực hay Hư Vô là một chủ đề có thể gây nhiều tranh căi.
Vô Cực theo
Chẳng
hạn với một ngôi sao, trước khi nó thực sự
h́nh thành th́ nó vốn là các tinh vân. Tinh vân chưa phải là sao, mà chỉ chứa
đựng cái sẽ trở thành sao, là cái nguồn mà không
phải vật. Chỉ khi đám bụi
khí đó tụ lại, và dưới tác động của
các lực, các sóng, nổ bùng thành một tân tinh, th́ thời
điểm đó mới là Thái Cực.
Hoặc như một
con người, trước khi Tinh cha gặp Noăn mẹ,
th́ cấu thành sự sống vốn đă có sẵn,
nhưng vẫn chưa thể là vật. Chỉ
khi có sự thụ tinh th́ những ǵ tiềm phục trong nội
tại Âm Dương mới giao ḥa để phát lộ
thành Thái Cực là tế bào khởi thủy duy nhất.
Thậm
chí có thể hiểu Vô Cực là không có cả các nguồn,
không có những cái thường có trong bất kỳ vật
nào, trong mọi nhận thức, tư tưởng. Từ
cái nguồn Vô đó mới sinh Có là Thái Cực. Vô Cực là
cảnh giới nguyên thủy mà khi đă là vật, đă
thành, th́ không thể đạt đến hoặc quay lại.
Trong Vô Cực có ǵ? Không phải là không
có, mà là không thể phản ánh được, cũng
như “trước” BigBang có ǵ, hoặc sau Lỗ đen có
ǵ, th́ không thể phản ánh, nhận thức được,
bởi lúc đó Thời gian cũng không c̣n hoặc bị
triệt tiêu.
Cùng với việc
không chấp nhận Đấng sáng thế, mà coi tự
nhiên tự vận động, Vũ trụ quan
phương Đông mang tính khoa học và khái quát cao. Tự nhiên là cao nhất, khái niệm Trời là cái
nguồn uyên nguyên vô tận của các quy luật. Các vị
thánh thần huyền thoại như Phục Hi cũng chỉ
t́m cách phản ánh và hội nhập vào cái nguồn đó, hiểu
được nó và sử dụng nó như là con đường
sống cho ḿnh chứ không sáng tạo thêm được
điều ǵ cho tự nhiên. Hà đồ Lạc thư do Trời gửi đến, nhưng
Trời không phải là một người cụ thể
nào, mà là tự nhiên vô cùng vô tận, tuy có khởi đầu
nhưng biến đổi không ngừng.
Như vậy, trải
qua hàng ngàn năm, thuyết Âm Dương đă h́nh thành và
phát triển để hoàn thiện như ngày nay. Thậm chí ngay đến bây giờ vẫn luôn có
những học giả t́m hiểu ư nghĩa của nó.
Đó là một nguồn sâu rộng để t́m hiểu về
Thế giới và con người. Vũ trụ quan trong Dịch
học phản ánh khá đầy đủ và khoa học hiện
thực mà bây giờ khoa học hiện đại vẫn
đang t́m hiểu, tất nhiên là ở một tầm khái
quát chứ không cụ thể rơ ràng.
Thuyết
Âm Dương không đứng riêng rẽ một ḿnh. Trong
quá tŕnh phát triển, nó đă được kết hợp
với các Ngũ hành, Can Chi để tạo
thành một hệ thống hoàn chỉnh, làm nền tảng
cho tư duy phương Đông.
Những nội
dung cụ thể hơn của các ứng dụng
được đề cập đến trong những
phần sau.
(*)
Ma phương: Magic square: h́nh gồm các ô vuông có số với
những quy tắc đặc biệt, chẳng hạn tổng
theo tất cả các hàng, các cột, theo
đường chéo đều bằng nhau.
(*)
Lá cờ của Việt Nam thời chính phủ Trần Trọng
Kim (1940) có h́nh quẻ Ly gồm 1 vạch đứt ở
giữa 2 vạch liền, là ngụ ư ở phương Nam.
Big Bang
Âm Dương: Yin Yang
Bát Quái: Ba Gua, Eight Trigrams,
Tiên thiên: Earlier Heaven, Primal Arrangement –
Hậu thiên: Ater Heaven, Inner World Arrangement
Thái Cực Tai Ch’i
Dịch Kinh I – Ching
Xuân phân Vernal Equinox
Thu phân Autumnal Equinox
Hạ chí Summer Solstice
Đông chí Winter Solstice
Hà Đồ Ha Tu
Lạc Thư Lou Shu
Phục Hi Fuxi
Thần Nông Shennong
Hoàng Đế Huangdi
Đạo giáo Taoism
Phong Thủy Fengshui