Tác giả: Bùi Dương Hải
2. NHỮNG
NHÀ THIÊN VĂN CỔ ĐẠI
“Mỗi
người nông dân đều là một nhà thiên văn nghiệp
dư” – nhận xét đó không hẳn là quá đáng đối
với những kiến thức thiên văn của cư
dân Hoàng Hà. Tuy nhiên, để đạt đến
trình độ mà thế giới phải ghi nhận, không thể
không nhắc đến công lao của những
nhà thiên văn chuyên nghiệp thực thụ, mà tác phẩm
của họ còn đến ngày nay. Dưới
đây giới thiệu một số người có nhiều
thành quả nhất.
Những
nhà thiên văn học chuyên sâu đầu tiên được
thực sự ghi nhận trong lịch sử Trung Hoa là từ
thời Chiến quốc (400 - 200 TCN), trong đó nổi tiếng
nhất là Thạch Thân. Trong Sử Ký rằng: Thạch
Thân (khoảng 350 TCN) là nhà thiên văn lịch pháp của
nước Vệ, đã viết các tác phẩm gồm: Thiên
văn (8 chương), Thiên Văn Chiêm (8
quyển), Thạch thị Hỗn Thiên đồ
(1 quyển), Thạch thị Kinh bạc Tinh chiêm (thường
gọi là Thạch thị Tinh kinh bạc chiêm - 1
quyển). Tập bản đồ vẽ khoảng 800 ngôi
sao chia theo 122 chòm, theo truyền thuyết
thì 28 chòm đã được Vu Hàm đời nhà
Thương phân định.
Tuy nhiên, theo một số thuyết về sau, Thạch
Thị là tên gọi chung cho một nhóm học giả thời
đó chứ không phải chỉ 1 người. Thạch
thị Tinh kinh bạc chiêm bị thất lạc trong
những thế kỷ sau, chỉ còn một số đồ
hình các vì sao của nó được sao chép lại trong các thư tịch khác, mà còn giữ đến
nay là Khai nguyên Chiêm kinh (thời đại Khai Nguyên nhà
Đường – 729). Một bản sao khác của
cuốn sách hiện được dòng họ Wakasugi ở
Cách giải thích các
hiện tượng của Thạch thị không tránh khỏi
những hạn chế, do chịu ảnh hưởng của
tư tưởng Nho giáo, chẳng hạn như đoạn
sau: “Khi thiên tử sáng suốt, mặt trăng sẽ
đi theo đúng hướng, khi thiên tử không minh, đại
thần chiếm quyền, mặt trăng sẽ đi chệch
đường”.
Cùng thời với
Thạch Thân là
Trong tác phẩm Sử Ký đồ
sộ, Tư Mã Thiên - sử gia vĩ đại, đồng
thời là một nhà thiên văn, địa lý kì tài thời
thời Hán Vũ đế - đã dành hẳn một quyển
là Thiên Quan thư để ghi chép về thiên văn, tập
hợp kiến thức từ tiền nhân cũng như của
bản thân ông. Tư Mã Thiên đã liệt kê hơn 1000
ngôi sao, cũng như ghi lại các hiện tượng
đặc biệt của bầu trời. Thiên quan thư của
ông là tác phẩm hoàn chỉnh sớm nhất còn đến
nay, hầu như kết quả thiên văn trước
đó đều được hệ thống lại,
thêm vào đó là các kiến thức của bản thân ông. Những
quan sát đó cho thấy những gì đã xảy ra hơn
2000 năm trước. Có thể ông đã tham khảo các bản
của Thạch thị, nhưng những nhận xét
đánh giá riêng của ông về Thiên tượng cũng có
giá trị rất lớn, chẳng hạn trong việc phân
chia màu sắc các sao .
Kế tục
Tư Mã Thiên, thái sử Ban Cố, tác giả bộ Hán Sử, cũng là một
nhà thiên văn. Chính ông là người đã tìm ra chu kỳ
76 năm của sao chổi Halley, cũng như viết về
quĩ đạo của các hành tinh. Tiếp theo ông, Đổng
Trọng Thư cũng để lại dấu ấn của
mình qua việc đoán được hiện tượng
Nguyệt thực, thông qua việc tính toán từ các văn bản
giáp cốt. Cho đến cuối thời Tam Quốc (200),
các nhà thiên văn đã hệ thống lại các tài liệu,
ghi lại tổng cộng 1464 sao trong 283 chòm.
Đỉnh cao nhân
loại về Thiên văn học cổ đại là Trương
Hoành, đồng thời cũng là nhà địa lý, toán
học, làm việc tại kinh đô Lạc Dương của
nhà Hán. Sau nhiều năm dành cho nghiên cứu thiên văn, ông đã tìm ra quĩ
đạo chính xác của 5 hành tinh trong Hệ mặt trời,
ghi lại vị trí các sao được nhìn thấy bằng
mắt thường. Những nhận định chính xác của
ông về Hệ mặt trời khiến người thời
đó không thể hiểu được. Ông cho rằng
trái đất phải có hình tròn chứ không phải phẳng
dẹt, bầu trời bao bọc bên ngoài, ánh trăng là phản
chiếu của mặt trời, Nguyệt thực là do mặt
trăng đi vào bóng của trái đất, và hình dáng tròn
khuyết của mặt trăng là do góc độ nhìn khác
nhau từ mặt đất.
.
Trương Hoành viết
hơn 20 tác phẩm, trong quyển Hỗn Thiên chú
ông viết:
“Trời
tròn giống như quả trứng, mà Đất giống
như lòng đỏ, nằm lơ lửng ở chính giữa,
bầu trời lớn hơn bao bọc xung quanh”
Còn trong tác phẩm
thiên văn Linh Hiến, ông đã vẽ vị trí
các chòm sao và viết:
“Trong
bầu trời từ Bắc đến Nam có 124 chòm sao, gồm
2500 ngôi sao tỏa sáng, trong đó 320 ngôi đã được
đặt tên; đó là chưa kể những sao mà những
người đi biển nhìn thấy. Kể cả những
sao rất bé thì tổng số là 11.520 ngôi”.
Đặc biệt
nhất là ông đã chế tạo một dụng cụ
quan trắc thiên văn là Hỗn Thiên Nghi. Theo Hán Sử,
Hỗn thiên nghi gồm những vòng đồng có chia khoảng,
một Thiên cầu bằng đồng. Đường
Hoàng đạo của Thiên cầu lệch với xích đạo
một góc 24 độ ( chỉ sai 0,5 độ so với
thực tế). Một chiếc ống thẳng để
nhìn giúp ông xác định vị trí các sao theo hướng
không sai lệch và không bị ánh sáng khác ảnh hưởng.
Nhờ đó, các ngôi sao được đo đạc vị
trí chính xác, điều mà chưa ai làm được
trước đó. Sau đó, ông còn dùng sức nước
đẩy quả cầu quay, mô tả chuyển động
các sao, hiện tượng tròn khuyết của mặt
trăng và Nguyệt thực được giải thích
chính xác.
Một phần ra
ngoài đề một chút, là các phát minh của Trương
Hoành. Cũng giống như các nhà Thiên Văn học
phương Tây thông thường là nhà Vật lý – Toán học,
Trương Hoành còn có các phát minh trong nhiều lĩnh vực
khác.
Một sáng chế đáng chú ý của
ông là thiết bị đo động đất. Nó gồm
một bình đồng, có những cơ cấu nhậy với
độ rung ở trong, bên ngoài là 8 con rồng ngậm hờ
một quả cầu ở miệng, bên dưới là 8 con
cóc quay về 8 hướng. Nếu có chấn động,
quả cầu sẽ rơi xuống, và tùy tiếng động
to hay nhỏ mà đoán động đất mạnh hay yếu.
Hậu Hán thư viết
lại rằng: năm 138, khi thấy quả cầu ở
phía tây rơi xuống, Trương Hoành đã vội yến
kiến và trình với vua rằng có động đất ở
phía tây Lạc Dương. Vào ngày hôm đó không có gì xảy
ra ở kinh đô, khiến ông bị những quan lại
khác chỉ trích. Nhưng 2 ngày sau thì có tin báo là có động
đất mạnh ở 1000 dặm phía tây Lạc
Dương. Sự kiện này gây xôn xao triều đình.
Ông cũng là người
đã nêu ra cách tính tỉ số pi (p) bằng
căn bậc 2 của 10, sai số với thực tế
là khoảng 0.02. Đáng tiếc là do nhiều nguyên nhân, chỉ
còn rất ít trong số các công trình của ông còn lại
đến nay.
Tổ Xung Chi là nhà
toán học và Thiên văn – Lịch pháp thời Nam Bắc triều.
Ông là người
đã tính toán chính xác các ngày Hạ chí, Đông chí hàng năm
thông qua việc đo độ dài bóng của một cây gậy
cắm thẳng đứng trên mặt đất. Từ
đó hình thành cơ sở cho việc tính một loại lịch
mới chính xác hơn Âm-dương lịch mà các vị vua
đang dùng. Năm 462, ông đưa ra loại lịch mới,
tính được độ dài năm giữa hai lần
Xuân phân kế tiếp là 365,24281481 ngày (sai lệch 50 giây so với
tính toán hiện đại), và độ dài của tháng mặt
trăng là 27,21233 ngày (lệch 9 giây). Ông phát hiện thấy
sự tiến động của ngày Xuân phân khiến cho
năm nhiệt đới ngắn hơn so với năm mặt
trời thực 21 phút, cũng như thấy rằng sau 7
chu kỳ 12 năm, Sao Mộc lại dôi ra khoảng 1/20
quỹ đạo của nó.
Phát hiện đặc
biệt quan trọng của ông trong Toán học là cách tính p bằng
phân số 355/113, chính xác đến 6 số
thập phân, và khá giản tiện. Sau một đo đạc
chính xác khác, ông tuyên bố một vòng tròn có đường
kính 10 triệu trượng thì có chu vi lớn hơn
31.415.926 và nhỏ hơn 31.415.927 trượng (tức là
3,1412516 < p <
3,1415927). Tên của ông được đặt cho một
ngọn núi trên Mặt trăng.
Trong thời
Đường, Nhất Hành là một hòa thượng, cũng
được ghi nhận với kết quả tính toán
độ dài một cung 1 độ trên kinh tuyến là
351,27 dặm (tương đương 123,7 km) Ông cũng
dựng một thiên cầu ở Trường An, mô tả
chuyển động các sao, và vẽ đường biểu
kiến chuyển động các hành tinh và các ngôi sao rất
xa một cách chính xác.
Một nhà lịch
pháp và thiên văn đời Tống là Tô Tống đã quan
sát mặt trời, mặt trăng và các vì sao, tạo ra một
chiếc đồng hồ thiên văn chạy bằng nước rất tinh xảo.
Trong Tống sử, sau khi đi sứ sang phía Tây và nhận
ra sự khác biệt giữa cách tính ngày rằm giữa
Trung hoa và một nước khác, ông về kinh năm 1090 và
chế tạo chiếc đồng hồ thiên văn ở
kinh đô Biện Lương. Chiếc đồng hồ
thiên văn này cao gần 10m, ở tầng trên cùng có khung Hỗn
thiên nghi và thiên cầu chạy bằng sức nước,
dựa trên một hệ thống cơ khí rất phức
tạp bên trong, cứ mỗi giờ lại có các tượng
đồng gõ chuông, thiên cầu quay theo sự vận động
của mặt trời mặt trăng. Theo ghi chép thì có
đến hàng chục tượng đồng, vận hành
hoàn toàn bằng sức nước.
Tiếc rằng khi
triều đại sau nối tiếp, ông vua mới đã
không hiểu được ý nghĩa của phát minh trên,
chiếc đồng hồ bị phá dỡ để lấy
đồng.
Ngày nay, ở
Đài Loan vẫn còn trưng bày một phiên bản nhỏ
hơn của chiếc đồng hồ Tô Tống.
Nhất
Hành (683 – 722)
Nhất Hành là pháp
hiệu của một hòa thượng đời
Đường. Tại kinh đô Trường An khi đó
ông cùng các đồ đệ đã dựng lên một Thiên
cầu lớn được vận hành và chuyển động
cùng với các thiên thể ban đêm trên bầu trời. Ông
đã vẽ đường chuyển động của
các hành tinh so với các vì sao khác một cách chính xác. Cho đến
trước công trình của Halley năm 1718, đây là quỹ
đạo chính xác nhất mà con người tìm ra
Còn nhiều nhà Thiên
văn – Lịch pháp nữa trong các triều đại sau,
mà mỗi người đều để lại dấu ấn
nhất định cho nền công việc nghiên cứu Vũ
trụ, thiên nhiên. Những đóng góp của họ trong thời
gian dài đã đem lại những kết quả lớn,
đặc biệt trong việc tính lịch pháp.
Thạch Thân: Shi Shen
Thạch thị: Shi shi
Tư Mã Thiên: Sima Qian
Trương Hoành: Zhang Heng
Tổ Xung Chi: Zu Chongzhi
Tô
Tống: Su Song